dnnp - mây hồng

 

 

 

 

 

 

Viết về thầy cô, bạn cùng lớp và kỷ niệm


 

* hồi ức
 


KỂ MỘT CHÚT VÌ SAO TÔI CÓ MẶT Ở TRUNG HỌC KIẾN TƯỜNG?


Tôi sinh ra và học bậc tiểu học nội trú chương trình Pháp tại Saigon. Vì gia biến nên theo ông bà ngoại về sống tại Kiến Tường và thi vào lớp đệ Thất tại đây.


Mặc dù tôi chỉ là một đứa con nít, nhưng đến một nơi sống mới, thay đổi cách sinh hoạt hàng ngày – dĩ nhiên là tôi bị hẫng và cảm thấy lạc lõng. Phần nữa, Kiến Tường hồi đó buồn ngắt không rạp chiếu bóng, không tiệm kem. Ban đêm heo hút ánh đèn. Có khi vì an ninh không dám ngủ trên giường, phải giăng mùng ngủ trong căn hầm ẩm thấp hăng hăng mùi đất.


Đối với Kiến Tường, tôi là người mới, vừa không có bạn, thậm chí cũng không dám bắt chuyện làm quen với ai. Những mùa nước lụt lại là một cực hình – tôi chưa quen đi cầu khỉ, không dám đi trên cây cầu bằng tràm lung lơ lắt lẻo bắc dọc trước cửa nhà. Cũng như chưa ngồi xuồng lần nào, thấy nó chòng chành, tôi cảm tưởng chỉ bước chân lên là nó lật úp. Nhà tôi ở dãy cư xá Tòa Hành chánh. Năm nào lụt lớn, trường đóng cửa là tôi về Saigon. Lụt nhỏ, tôi lột sandal, vén ống quần, cột cao hai tà áo lội đi học.


Cái thú eo hẹp, độc nhất trẻ con của tôi lúc bấy giờ là mỗi buổi trưa ghé vào tiệm sách Rạng Đông. Tôi mê sách như anh chàng cao bồi Lucky Luke chỉ có con ngựa Jolly Jumper làm bạn. Hôm nào đường bị đắp mô, chuyến xe đò chở báo về trễ là tôi buồn ngơ ngất. Ông ngoại tôi thương cháu nên hay dấm dúi cho tiền để tôi mặc sức mua những cuốn truyện tranh vẽ màu tim tím hay những cuốn truyện dày hơn toàn chữ là chữ. Tôi thường ngóng cậu dì về thăm ôm theo từng chồng sách cho đứa cháu côi cút. Tuổi đó mà tôi đã đọc hết những cuốn sách của ông Nguyễn Hiến Lê, làm bạn với Mai Bê Bi, cười với bé Ngôn bé Luận và coi luôn qua truyện tranh con trai Tarzan đu dây. Mê luôn Tintin với cái bờm tóc và quần túm đi với con chó Milou tròn vo. Tôi còn ước mơ lớn lên mở quán sách để được “ngấu nghiến” hết quyển này đến quyển kia.


Năm tôi học đệ Thất, trường Kiến Tường có bốn dãy lớp. Dãy đầu chỗ cổng bước vào dùng trọn làm khu văn phòng. Còn lại, có dãy chỉ có hai lớp - có lớp được làm nhà kho, có lớp để vợ chồng thầy Nguyễn Văn Đấu làm nhà ở. Tôi học ở dãy lớp cao ráo và “bệ vệ” nhất. Năm học đệ Lục, lớp tôi nhìn ra miếng đất trống bên hông, chỗ đó đang xây cất để mở thêm trường Bán công có cổng nhìn ra con đường đi ngang Ty Bưu điện.


CHUYỆN NGOÀI SÂN:


Tôi rất ngại làm quen nên ít bạn. Giờ chơi tôi hay tha thẩn một mình, có khi đứng dựa cột nơi hàng hiên nhìn các nam sinh chạy giỡn đấu láo dưới các tàng cây điệp mát rượi trước dãy lớp.


Chính ở sân trường, tôi biết nhiều chuyện rất vui, như tôi biết anh Nam học trên tôi hai lớp có nickname là Quẹo, vì cứ hễ mỗi lần anh từ cổng trường đi vô, tới cua quẹo vào lớp là có tiếng nhao nhao “Quẹo…Quẹo” rồi cả bọn cười ồn ào.


Từ chỗ đó, tôi biết những câu tiếng lóng, biết thầy nào mới cưới vợ, thầy nào sắp đổi đi, cô nào mặc áo dài mới, hoặc nàng nữ sinh nào có bồ, hay anh chàng lớp kế bên mới gửi thư tình cho ai….Đại loại như vậy…


XE CỘ CHÚNG TÔI:


Học sinh có một số ở xa thì đi xe đạp. Còn lại, giáo sư, học sinh đều đi bộ. Tôi học buổi sáng, đi học có lúc ngoài đường còn một lớp sương chấp chới óng ánh chút màu nắng – Trong không khí thơm thơm mùi cỏ, mùi ngày mới. Trong một không gian thật im ắng - Từ các ngã đường, từng tốp học sinh, từng tốp giáo sư lượn lờ xuất hiện, râm ran, đông đảo chỗ ngã tư trước Cư xá Công chánh rồi đoàn người như đàn bướm trắng, điểm xuyết chút xanh vàng tím… dập dềnh trôi dài đến trường dưới hàng cây dọc theo lối đi thật đẹp.


NHỮNG LIÊN HỆ VỚI MỘT SỐ THẦY VÀ CÔ:


Mr. Webb dạy Anh văn. Tôi phát âm tiếng Anh sai be bét, nhưng thầy vẫn kiên nhẫn dạy thật chậm cho đến khi nào tôi đọc cho đúng. Thầy có cái bụng tròn vo và khuôn mặt đỏ hồng cười tươi rói hạnh phúc như nụ cười La Vache Qui Rit, nhãn hiệu của một loại phó mát sản xuất ở Âu châu bán sang Việt Nam thời đó.


Thầy Hòa (không nhớ họ) là người tôi thân nhất, chính thầy là người đưa tôi lên tòa báo Tiếng Chuông để lãnh giải nhất về Thơ. Năm tôi lên đệ Lục, thầy Hòa đổi về Saigon, kể từ đó tôi không biết tin tức thầy.


(Sau khi trang web THKT được mở ra, tôi lần hồi đi tìm tung tích thầy Hòa. Nghe tôi hỏi thăm, thầy Trịnh Đình Loạt hiện sống tại Cali (Hoa Kỳ) cho hay, thầy Hòa chính là thầy Trần Khắc Hòa, nay đã qua đời. Tôi xem hình trên web THKT, thấy thầy Trần Khắc Hòa trẻ hơn thầy Hòa mà tôi tìm. Vả lại tôi vẫn thắc mắc là thầy Hòa đã đổi về Saigon vào năm 1966, không lẽ vài năm sau thầy trở vô dạy rồi làm Hiệu trưởng? Năm thầy Hòa dạy tôi (1965), thầy là một trung niên, đeo kính cận, dáng đứng như khom khom như rùn cái bụng và hút thuốc nhả khói thật đẹp).


Thầy Cao Thành Phát hay nói chuyện với tôi, có lẽ một phần ở Saigon, nhà tôi gần khu nhà thầy, phần nữa tôi là học sinh giỏi môn Anh văn. Thầy nói chuyện hay kể về đứa con gái đầu lòng tên Cao Thanh Thiên Hương.


Khoảng năm 1989, thầy Phát biết tin tôi dạy học tại Mỹ Tho và tôi còn nhớ như in những giọt nước mắt của thầy khi thầy tìm thăm tôi trong bịnh viện lúc tôi bị tai nạn (thầy là người của THKT đầu tiên và duy nhất tôi gặp lại sau khi rời trường).

 

Một năm sau, tôi qua Mỹ và thêm hai mươi năm nữa thầy vẫn nhận ra giọng nói của tôi trên điện thoại.


Thầy Mai Văn Nhãn thật oai vệ, gương mặt rất khí phách với chòm râu quai nón thật độc đáo.


Thầy Nguyễn Xuân Kỳ thật hiền, dáng ẻo lả với nước da trắng hồng. Thầy dạy môn Vạn vật nên vẽ những đài hoa cánh lá tỉ mỉ thật đẹp.


Thầy Đoàn Văn Nhiêu dạy Toán có kiểu tóc thật đặc biệt, nhìn xa xa tôi tưởng thầy đội beret. Tôi vốn dở toán, nên hôm nào có giờ thầy, là tôi cứ van vái cho thầy bị bịnh. Học dở môn thầy, nên tôi luôn đội sổ.


Thầy Đỗ Ngọc Trang dáng dấp như sinh viên, đeo kính cận dày, có lẽ chỉ thua độ dày cặp kính của thầy Trần Ba. Sau này về trang THKT biết thầy cưới cô Nguyễn Thị Bích Thủy. Hiện nay, thầy chuyên viết về Thần học ký tên Đỗ Trân Duy. Trong quý thầy, thầy Trang râu tóc bạc trắng tiên phong đạo cốt nhất. Tuy thế, nhìn thầy rất tinh anh tráng kiện.


Thầy Lưu Văn Nhu dạy Lý Hóa. Tôi học dở môn thầy Nhiêu, cũng dở luôn môn của thầy Nhu. Có lần thầy kêu tôi trả bài, thấy tôi không thuộc, thầy kêu tôi đọc… thơ. Tôi “quê” quá, rươm rướm nước mắt, thầy kêu về chỗ và cho 10 điểm. Mấy đứa con gái lớp tôi xì xào… Sau này, tôi có dịp làm bạn với Vân, cháu gọi thầy Nhu bằng chú – nhà ba má Vân ở gần chợ Dân sinh.


Sau khi cô Cẩm Nhung qua đời, thầy không tục huyền, hiện sống với các con tại Saigon.


Thầy Nguyễn Tấn Trưởng có mái tóc xoắn quăn, thường khen tôi học khá.


Thầy Bùi Trung Tính dạy Việt văn. Thầy Tính chú ý tôi vì tôi học thật xuất sắc các môn Kim văn, Cổ văn, hay lên trần thuyết đều đạt điểm tối ưu. Cuối năm để khuyến khích, thầy tặng cho tôi một phần thưởng hậu hĩnh gồm rất nhiều sách giáo khoa và tập vở, trong đó còn một cây bút Parker nắp vàng khắc tên họ tôi thật đẹp. Từ đó, bỗng nhiên mấy đực rựa gọi tôi là Giáng Kiều. Thủ phạm bày đầu là An Ngọc Quang học cùng lớp.


Cách đây một năm, qua một bài viết trên một trang báo tại hải ngoại, anh Phạm Doanh Môn học trên tôi hai lớp, tìm tôi và dắt tôi về trang Web của trường - Bất ngờ, người tôi gặp đầu tiên là thầy Bùi Trung Tính. Thầy trò cách xa hơn 40 mươi năm gặp lại thật nhiều xúc động. Tôi mừng khi thấy thầy cô giờ sống hủ hỉ hạnh phục bên con cháu sau những tháng ngày gieo neo.


Thầy Lương Văn Liêng nghiêm nghị, có một phong thái thật lịch lãm của người Hà Nội. Thầy có khiếu về âm nhạc, thường tập cho những tốp ca cách hát bè. Nhờ thầy, tôi bắt đầu mê âm nhạc, nhưng giọng tôi “ẹ” quá.


Tôi nghe nói thầy đã qua đời.


Cô Trà Liên giảng bài thật hay, giọng Huế trọ trẹ véo von. Trong lớp có mình tôi là “hiểu hết” những gì cô nói. Bởi họ hàng bên ngoại tôi là “Huế rặt”. Ở Kiến Tường, người ta gọi ông bà ngoại tôi là “Ông bà Trung”.


Cô Triệu Cẩm Nhung đẹp nghiêm nhưng hiền, và đặc biệt cô có dáng dấp thanh thoát đài các. Trước khi lập gia đình với thầy Nhu, cô có mái tóc dày, chấm vai cuốn úp. Sau này, mái tóc cô cắt ngắn tỉa mỏng.


Nghe tin cô mất sớm, ai cũng ngậm ngùi.


Cô Hồng Châu không là giai nhân, nhưng cô biết cách làm nổi bật làn da sáng trắng mịn màng và che lấp khuyết điểm cặp môi với màu son cánh sen thắm đượm tôn hàm răng thật sạch, trắng bóng. Tôi là học trò dở thậm tệ môn Nữ công. Có lần nộp bài thi trễ, tôi phải cầu cứu thầy Tính với tư cách là giáo sư hướng dẫn nộp, cô Châu mới nhận.


Có lẽ cô Hồng Châu là người sống trong tủi cực gấp lần những người phụ nữ khác. Hoặc cái chết của thầy đã vắt kiệt sức lực của cô khiến cô bây giờ quắt queo méo mó, không còn giữ lại bất cứ một dấu tích gì của một dáng dấp sang trọng như bà hoàng hậu được bầy nữ sinh bao lớp trong lớp ngoài của thời ngày đó ngưỡng mộ.


NHỮNG NGƯỜI BẠN:

 


Tấm hình lớp đệ Lục A (1966).

 

Tôi luôn ngồi bàn đầu và đầu bàn, chỗ lối giữa. Bàn tôi còn có Kim Phụng, Huê, Võ Thị Hoa, Kim Hoàng.


Bàn sau lưng tôi là Nguyễn Thị Chiến, rồi Đồng Thị Ngọc Lan….Nguyễn Thị Mừng ( sau đổi thành Nguyễn Thị Rỡ). Bàn cuối lớp có chị Lê Thị Bé, chị Lê Mỹ Lệ, chị Nguyễn (Hồng) Châu.


Chị Lê Mỹ Lệ hay gọi tôi là con “Mít ướt” rồi lên giọng hăm he: “Đứa nào ăn hiếp con Vân Hồng, biết tao!” Chị Mỹ Lệ cao to người, tóc kẹp rẽ bảy ba cho tóc bồng lên rặt kiểu gái quê thời trước. Chị hay giỡn và thường đi cặp tàu với chị Lê Thị Bé và chị Châu như bộ “tam sên”. Có lần lớp tôi trống giờ, cả bọn rủ nhau lên Núi Đất. Hồi đó Núi Đất hoang sơ lắm. Thường lên Núi Đất là những anh chị cặp bồ hay những anh chàng “Làm học trò không sách vở cầm tay. Có tâm sự đi nói cùng cây cỏ” vô đó không phải nói với cây cỏ mà khắc tên trên cây làm dấu một thuở… thất tình! Núi Đất nhiều cây nên mát rượi. Bọn tôi vừa đi loanh quanh, vừa nghễnh cổ tìm kiếm, có đứa chí chóe khi thấy một cái tên quen thuộc khắc chung với trái tim, có chỗ khắc mũi tên xuyên qua trái tim lệt bệt lem luốc mấy dấu chấm tròn làm như máu đổ…
Chơi giỡn một hồi, nghe tiếng xe cà rem rung chuông leng keng, cả bọn mừng quá chạy ra. Cà rem hồi đó có đủ loại đậu, làm thành một cây dài tròn bao bằng giấy láng - mua mấy đồng thì cắt khúc cỡ mấy đồng. Tự nhiên đang ăn, không hiểu sao chị Mỹ Lệ xúi An Ngọc Quang: “Mày dám hái bông tặng con Vân Hồng, tao cho mày cây cà rem”. Không biết vì sợ chị Mỹ Lê hay vì cây cà rem mà Quang vội vàng đi hái một cành bông đem tới rồi An làm y như trong tuồng cải lương quỳ xuống trao bông cho công chúa khiến tụi tôi cười ngặc nghẽo. Anh Đáng có chụp tấm hình này, nhưng sợ bị đòn nên tôi cắt giấu (bỏ) hình của Quang. Tụi tôi chỉ con nít giỡn chơi thôi. Lúc đó còn khờ lắm.

 

Tấm hình vânhồng chụp tại Núi Đất lúc học đệ Thất (1965).


Lê Văn Đành là cứu tinh khi cho tôi cọp dê suốt kỳ thi đệ Thất. Đành hiền lắm, nghe Quang nói Đành chưa hề khoe ai về “thành tích” này, chỉ khi tôi kể lại, Quang mới biết.


An Ngọc Quang vui tính, tốt bụng, hát hay cũng hay kiếm chuyện chọc người này người nọ nhất lớp. Hiện giờ Quang sống với vợ con tại Oklahoma. Tuy Quang không khỏe nhưng lúc nào cũng sẵn sàng dấn thân vì bạn bè. Lâu lâu Quang gọi, tụi tôi nói đủ thứ chuyện trên đời.


Anh Đáng… anh Tới ngồi bàn chót thì... nghịch ngầm. Còn mấy nhóc nhỏ con ngồi mấy bàn đầu khỉ ơi là khỉ. (Sao tôi quên tên!)


Nguyễn Thị Chiến có đôi mắt màu hạt dẻ, da mặt lấm tấm tàn nhang, miệng móm nhưng đẹp và học giỏi, nhà trong khu Thành Công. Chiến có người chị gái vợ anh Điền cũng đẹp. Sau này nghe nói Chiến dạy ở Mỹ Tho. Tôi ở Mỹ Tho mà không hề gặp.


Đồng Thị Ngọc Lan rất ít nói, học giỏi, có nước da nâu đậm, nhưng có đôi mắt với cặp lông nheo rậm ri thật đẹp.


Chị Lê Thị Bé dáng vóc cao lớn thường đi cặp với chị Hồng Châu, chị Mỹ Lệ. Họ là bộ “tam sên”.


Lai Thị Bạch Cúc quen tôi từ lúc tôi theo học trường Baotixita. Bạch Cúc hiền, sau năm 1983 tôi gặp lại Bạch Cúc ở Mỹ Tho (thời gian này, Bạch Cúc giúp tôi chút tiền bạc cho gia đình tôi qua cơn ngặt nghèo).
 Sau này muốn đền chút ơn, không biết Bạch Cúc nơi đâu.


Nguyễn Thị Rỡ học giỏi và viết chữ đẹp nhất (thường được thầy cô kêu lên viết bảng). Nhà Rỡ ở sau chùa Tường Vân, mỗi lần đi chùa (tôi trong gia đình Phật tử Chánh Thanh, thời anh Tâm làm Huynh trưởng), tôi hay chạy qua nhà Rỡ chơi. Tôi nhớ mỗi lần chùa có lễ lớn là nhà bếp có món bầu để nguyên khoanh chiên vàng rồi kho nước tương ăn thật ngon.


Nghe nói sau này, Rỡ dạy cho THKT.


Kim Hoàng rất ít nói, nhưng tốt với bạn bè, nhất là thường cho tôi coi bài.


Võ Thị Hoa còn có một em trai học chung, hai chị em giống nhau chỗ chân mày thật rậm.


Huê (tôi quên họ) có nước da trắng và cặp môi hồng thật đẹp. Huê chơi thân với Võ Thị Hoa.


Võ Kim Phụng nhỏ con nhất bên con gái, thật dễ thương. Tôi nhớ Phụng hay đi cặp với Lai Thị Bạch Cúc, hình như họ cùng xóm trong khu Thành Công.


TÌNH YÊU:


Ở Trung học KiếnTường có bốn người thường kẹp những lá thư viết vu vơ trong vở tôi. Mối tình đầu của tôi là ở trường khác.


HIỆU TRƯỞNG:


Tôi nhớ thầy Trần Ba, thầy hay cười, nhưng học trò sợ thầy lắm. Mỗi lần sắp hàng vào lớp, tụi học trò ngoái đầu nhìn lên văn phòng, thấy bóng dáng thầy là tụi tôi đứa nào cũng xếp hàng đứng thẳng tăm tắp.


GIÁM THỊ:


Thầy Nguyễn Văn Đấu là chồng của cô Hồng Châu. Thầy Đấu không có cái “uy” làm giám thị, vì vậy thầy “được thương” hơn là “được sợ”. Sau này nghe kể, vì vướng bịnh nan y, thầy sống dằng dai trong tủi cực, đau khổ, thiếu kém trước khi qua đời.


TRỞ VỀ SAIGON:


Mùa hè cuối năm đệ Ngũ (1967) vì chiến tranh, vì muốn tôi an toàn, cậu tôi đưa tôi lên học ở Saigon. Bước chân vào những ngôi trường đồ sộ nơi thủ đô hoa lệ, nhưng tôi vẫn thương Trung học Kiến Tường hơn. Tới giờ cũng vậy.
 

Tấm hình chụp tháng 4-2011 tại Detroit (Michigan, Hoa Kỳ).
 


. thụyvi
(Hầm Nắng Michigan, 24-5-2011)

 

 


Copyright © 2010 - 2011 Trung hoc Kien Tuong Homepage