Phụ âm “m” trong nét văn hóa “mồm
miệng”

Trên mặt của chúng ta, hầu như các bộ phận đều
bắt đầu bằng chữ m. Chúng ta có: mặt, mắt, mũi, má, mồm/miệng. Xét
về ngữ học để tìm nguyên nhân tạo ra chữ là điều rất khó. Vì vậy sự
liên hệ giữa phụ âm m và bộ mặt, hiện tại, chỉ có thể là một nhận
xét. Chúng ta hãy lấy danh xưng “mồm” để luận bàn.
Về khía cạnh ngôn ngữ
Các nhà ngữ học công nhận rằng không phải ngẫu
nhiên danh từ mồm bắt đầu bằng chữ m. M (đọc là mờ) là âm thanh phát
ra tự nhiên khi hai môi bật tung để thở mạnh thành tiếng. Có thể cái
âm thanh mờ (m) từ từ biến dạng trở thành “mồm”. Rồi từ mồm hầu hết
những sự vật và sự việc liên hệ đến mồm đều bắt đầu bằng chữ m,
chẳng hạn: mếu máo, móm, méo mồm, mỉm cười...

Tự điển Việt ngữ chú thích rằng: mồm còn gọi
là miệng, là bộ phận của người dùng để ăn… Như vậy mồm và miệng
giống nhau. Điểm lý thú của định nghĩa trên là mồm hay miệng chỉ
dành cho người. Có lẽ vì vậy mà ở thú vật mồm biến dạng thành “mõm”
hay “mỏ”. Tuy nhiên giải thích của tự điển Việt về mồm có vẻ quá đơn
giản. Trên thực tế chúng ta thấy rất nhiều trường hợp mồm và miệng
không thể hoán chuyển cho nhau. Có giả thuyết cho rằng khi ngậm kín
thì phải gọi là mồm, khi mở ra phải gọi là miệng. Người ta nói
miệng giếng, miệng chén, miệng bình… không ai nói mồm giếng,
mồm bình. Suy ra đang mở (tức miệng) mà đóng lại thì gọi là ngậm
miệng. Chẳng hạn trong câu: ngậm miệng ăn tiền. Còn đang ngậm
(tức mồm) mà mở ra thì gọi là há mồm. Khoảng trước năm 1954
người miền Bắc gọi các tàu chở hàng của quân đội Pháp là “tàu há
mồm” (tiếng Anh là landing ship). Sau đó người ta dùng hình ảnh này
vào cuộc sống. Chẳng hạn có ông đã ví von, “Tôi phải cày vất vả vì
có 3 cái tàu há mồm đang đợi ở nhà.” Ông muốn nói có vợ và hai con
đang đợi ăn, nhưng ăn hơi nhiều, ở nhà.

Sau đây là những nhận thức chỉ dùng với chữ
mồm:
- Đánh cho hộc máu mồm. Bọn thối mồm. Bò điên
có bệnh lở mồm. Lắm mồm. Thối mồm…
Và những nhận thức chỉ dùng với chữ miệng
- Miệng nhà quan có gang có thép. Nhắn miệng.
Trả lời miệng. Hôi miệng….
Có một nhận xét khác cho rằng từ mồm chỉ dùng ở
miềm Bắc. Người miền Trung và miền Nam chỉ dùng từ miệng. Nhận xét
này có vẻ đứng đắn. Theo 2 nhà ngữ học Hà Văn Tấn và Phạm Đức
Phương, từ mồm là từ của ngôn ngữ Mường (*). Người miền Bắc vốn có
một lịch sử lâu dài sống chung với người Mường nên có những ngôn từ
chung. Rồi không biết từ thời nào mồm chuyển thành miệng. Người miền
Trung và người miền Nam thích dùng chữ miệng nên bỏ quên chữ mồm.
Chúng ta cũng có thể thấy di tích của sự biến chuyển này trong một
số câu còn dùng lẫn lộn giữa mồm và miệng: “Ngưòi khôn phải biết giữ
mồm giữ miệng”, “Bé mồm bé miệng biết kêu vào đâu”…
Về phương diện cấu trúc

Miệng được che bởi một cặp thịt gọi là môi.
Ranh giới của môi và má gọi là mép. Tất cả những cơ phận này đều bắt
đầu bằng chữ m. Không thể có mồm/miệng nếu không có môi và mép,
nhưng môi và mép không thuần túy lệ thuộc vào mồm/miệng, chúng có
giá trị biệt lập. Những phẩm tính nói về môi mép cũng bắt đầu bằng
chữ m. Môi là phần gợi cảm, một biểu lộ của phái tính. Ở phái nữ,
môi mềm là yếu tố quan trọng. Ngày nay nếu bạn đọc báo hay đọc tin
trên website, bạn sẽ thấy không biết bao nhiêu mục quảng cáo nói về
mỹ phẩm làm môi mềm. Xin đừng lầm với mềm môi là từ
dành cho mấy ông nhậu uống say quá chén. Hết môi mềm tới môi mọng…
Môi mọng rất quan trọng, vì không ai muốn môi mỏng. Có lẽ vì
tục ngữ có câu “Mỏng môi hay hớt”. “Hớt” là thói xấu chen vào nói
trước những điều người ta định nói. Môi mép cũng được mấy ông tướng
số chiếu có rất kỹ. Tục ngữ có câu “Mồm loa mép giải, ăn hại chồng
con”. Ngay cả mụt ruồi cũng được đem vào “Mụt ruồi bên mép, ăn thép
cả làng”. Tuy nhiên có người lại cho rằng con gái có mụt ruồi mép là
có duyên. Trong xã hội, nhà chính trị dùng câu “môi hở răng lạnh” để
diễn tả cái thế tương lân. Nhà kinh doanh dùng chữ “môi giới” dùng
để chỉ 2 bên liên hệ với nhau. Còn người bình dân nói “mím môi trợn
mắt” để chỉ sự tức giận.
Mồm mà rụng hết răng thì gọi là “móm”. Móm mà
lũng sâu vào thì gọi là “móm xọm”, hay “móm xệu”. Sắp sửa khóc thì
gọi là “mếu”. Mếu quá lố thì gọi là “mếu xệch” hay “mếu máo”. Cười
mà không hở miệng thì gọi là “mỉm cười”. Nói không ra tiếng thì là
“mấp máy”. Trái lại nói lanh lẹ thì gọi là “bẻm mép” hay “mồm mép”.
Nhận thức trong văn hóa
Ngôn
ngữ là những ký hiệu âm thanh để diễn tả tư tưởng. Vì vậy qua ngôn
ngữ, chúng ta có thể thấy bóng dáng nhân sinh quan của một dân tộc.
Văn hóa Việt thuộc nền văn minh lúa nước nên gần gũi với
thiên nhiên hơn là những suy tư trừu tượng. Tổ tiên Việt vốn là
những nhà nông, vì vậy dân Việt có một nền văn hóa dân gian rất
phong phú. Đặc điểm của nền văn hóa này là sự nhận thức thiên về
giác quan.
Nhận xét về nhân tình thế thái, cổ nhân có
những câu:
- Mồm miệng hại thân: Ý nói không biết
giữ gìn lời nói, khiến vì lời nói mà bị tai họa.
- Há miệng chờ sung: Nằm đưới gốc cây
sung rồi há miệng chờ trái sung chín rơi vào miệng. Ý mỉa mai kẻ làm
biếng.
- Há miệng mắc quai: Ngựa mở miệng ra
thì mắc dây quai buộc vào miệng. Ý nói không thể nói ra những điều
sai trái của người khác vì mình bị ràng buộc trong mối liên hệ nào
đó.
- Khéo mồm miệng, đỡ chân tay: Có những
kẻ dùng lời khôn khéo (theo nghĩa xấu) để khỏi phải làm việc.
- Mồm mép ba hoa: Kẻ nói nhiều để thuyết
phục người nghe nhưng thiếu sự thật thà.
- Tiếc bánh bột lọc để thằng méo miệng nó
ăn: Ý nói người không biết thưởng thức cái hay cái đẹp.
- Đánh võ mồm: Dùng lời nói để dọa nhau
chứ không dám động thủ.
- Đòn mồm: Thường dùng để nói về một
người mà người này bị nhiều người khác dùng lời xỉ vả.
- Cóc mở miệng: Dùng để chỉ một hiện
tượng bất thường khi một người ít nói bỗng đột xuất phát ngôn.
- Ngậm miệng ăn tiền: Im lặng hưởng lợi
không nói ra những điều sai trái mà mình biết.
- Ăn vụng quên chùi mép: Làm điều mờ ám
nhưng để lại dấu vết.
Như chúng ta dã biết từ mõm và mỏ dành cho thú
vật, nhưng với lối chơi chữ đặc thù của văn hóa Việt nó cũng được
dùng cho người với ẩn ý. Câu “đánh cho chu mỏ” ý nói người đó nói
nhiều quá nên bị đánh vào miệng khiến nó sưng vều lên dài như cái
mỏ. Không thiếu gì những câu với ý ấn tượng như vậy, chẳng hạn
“Không lao động thì treo mỏ”.

Nói đến văn hóa, chúng ta không thể không nhăc
đến ca dao, tục ngữ.
- Đàn ông rộng miệng thì tài,
Đàn bà miệng rộng điếc tai láng giềng.
- Đàn ông rộng miệng thì sang,
Đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà.
- Tay bo miệng chúm, làm xụm xương hông.
- Trông lên dãy phố hàng Đào
Miệng chào hớn hở anh vào cùng em.
- Miệng ru mắt nhỏ hai hàng
Nuôi con càng lớn mẹ càng thêm lo.
Sau cùng xin đố các bạn trai câu này chỉ cái gì
có liến quan tới con người:
Lồm xồm hai mép những lông
Ở giữa có lỗ đàn ông chui vào.
Xin nói ngay đây là câu ca dao đố tục giảng
thanh. Nó là cái áo tơi, tức là cái áo đi mưa làm bằng lá.
Và cũng xin tặng các bạn gái câu:
Chồng giận thì vợ làm lành,
Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì.
ĐỖ NGỌC TRANG
(Elk Grove 18-5-2010)
__________
(*) Năm 1949, nhà ngữ học George Coedès đưa ra
giả thuyết cho rằng tiếng Việt được thành hình qua sư phối hợp của
các ngôn ngữ Nam Á và Tày và Thái. Hai ông Hà văn Tấn và Phạm Đức
Dương đồng ý với quan điểm này khi khảo sát ngôn ngữ Việt và Mường.
Về Ngôn Ngữ Tiền Việt-Mường, Dân tộc học, số 1, 1978nhiều
khi do cái mồm mà ra. Kẽ sĩ phu như Thánh Thán, Cìnbg mồm, gặp
kau,gồm môi, đi với răng, lưỡi.
|